Trước việc Tổng cục Thuế yêu cầu các cục thuế địa phương hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với toàn bộ các hoạt động liên quan nghiệp vụ thư tín dụng (L/C), nhiều tổ chức tín dụng cả trong nước và nước ngoài đều bày tỏ băn khoăn liệu điều này có đi ngược lại thông lệ quốc tế.
Liên quan đến vấn đề này, Tổng cục Thuế cho biết, căn cứ văn bản số 1606/TCT-DNL ngày 22/4/2020 của Tổng cục Thuế chỉ đạo các cục thuế địa phương, từ thời điểm Luật các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực (từ ngày 1/1/2011), L/C là hình thức cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định tại khoản 15 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010, sẽ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.
Do vậy, Tổng cục Thuế yêu cầu các cục thuế địa phương hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT. Toàn bộ các khoản thu liên quan nghiệp vụ L/C, không phân biệt có cam kết bảo lãnh hay không có cam kết bảo lãnh đều phải chịu thuế GTGT kể từ ngày 1/1/2011.
Lý giải rõ hơn về những quy định này, ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn cho biết, pháp luật thuế quy định các hoạt động tín dụng, cho vay, bảo lãnh không thuộc diện chịu thuế GTGT. Quy định này có từ năm 1997, cho đến nay, quy định này vẫn còn nguyên giá trị.
Trước đây, trong các quy định về tổ chức tín dụng cũng không có quy định cụ thể về L/C. Tuy nhiên, từ năm 2010 khi Luật các tổ chức tín dụng được ban hành (hiệu lực từ 1/1/2011) có quy định thư tín dụng là hình thức cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản (theo khoản 15, Điều 4). Nếu hiểu theo Luật thuế GTGT, nghiệp vụ này không phải là bảo lãnh tín dụng, không phải cho vay thì sẽ thuộc diện chịu thuế GTGT. Trường hợp L/C chứa đựng việc bảo lãnh có nghiệp vụ cho vay bắt buộc, các ngân hàng cũng hạch toán riêng và đưa vào diện không chịu thuế GTGT.
Ông Nguyễn Văn Phụng cho rằng, việc một số tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bày tỏ lo lắng sẽ bị truy thu thuế là do các đơn vị này trong suốt một thời gian dài đã không tách bạch rõ từng vấn đề, đó là bản chất của L/C có cả hai khía cạnh: tín dụng và thanh toán. Chính vì vậy, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đều kê khai tất cả L/C vào diện không chịu thuế GTGT.
Trước thực trạng này, ông Phụng cho biết, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các cục thuế phối hợp với các tổ chức tín dụng thực hiện bóc tách rõ thành 2 nhóm:
Thứ nhất, L/C nào có nghiệp vụ bảo lãnh, cho vay bắt buộc để riêng thành một nhóm.
Thứ hai, những nội dung chỉ liên quan đến thông tin về tài khoản, thông tin về chứng từ đưa đến, thông tin về chuyển tiền thì không phải là tín dụng thì tách riêng thành một nhóm.
“Đến nay, ngành Thuế chưa xử phạt bất kỳ trường hợp nào và đang báo cáo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phối hợp chỉ đạo để tất cả các đơn vị có liên quan đều thực hiện đúng quy định của pháp luật, đúng bản chất kinh tế”, ông Nguyễn Văn Phụng khẳng định.
Bên cạnh đó, ông Phụng cho rằng, về lâu dài để giải quyết triệt để những vướng mắc các quy định về Luật chuyên ngành cần có quy định rõ ràng cụ thể. Ví dụ như các ngân hàng nói rằng L/C là nghiệp vụ ‘lưỡng tính’ thì cơ quan quản lý nhà nước cần quy định rõ phần nào thuộc về tín dụng, phần nào không thuộc về tín dụng để từ đó thì cơ quan thuế có thể thu đúng thu đủ số thuế phát sinh. Khi văn bản pháp luật rõ ràng sẽ thuận lợi cho cả tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và các cơ quan kiểm tra, giám sát.
“Ngành Thuế là cơ quan tổ chức hành thu nên phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đối với với các ngân hàng nào làm chưa tốt thì cơ quan thuế sẽ phối hợp với các đơn vị chức năng hỗ trợ, giải thích để các tổ chức tín dụng thực hiện đúng chính sách pháp luật về thuế của nhà nước. Theo đó, ngành Thuế không thu thừa của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp nào, tổ chức tín dụng nào làm chưa đúng cần thực hiện kê khai điều chỉnh cho đúng. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc cần báo cáo ngay các cơ quan có thẩm quyền để được kịp thời tháo gỡ”, ông Nguyễn Văn Phụng lưu ý.